THỜI BÁO VIỆT - ÚC
Gắn kết - Hội nhập - Phát triển
Khi Nga sáp nhập Crimea và tấn công miền Đông Ukraine năm 2014, Kiev được nhiều người ủng hộ. Pháp, Đức, Anh và Mỹ tìm cách khôi phục chủ quyền cho Ukraine thông qua các biện pháp trừng phạt đối với Nga và thông qua ngoại giao, nhưng các nước này từ chối can thiệp quân sự trực tiếp. Chỉ khi đã muộn, các nước này mới cung cấp vũ khí quân sự gây sát thương – với trường hợp Washington thì phải đến năm 2019.
Tuy nhiên, vào cuối tháng 2/2022, khi Nga tập trung lực lượng ở biên giới Ukraine, sự lưỡng lự của các nước này nhìn chung đã biến mất. Cuộc tấn công mạnh mẽ diễn ra sau đó cùng phong cách lãnh đạo lôi cuốn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã mang lại đợt viện trợ tài chính và quân sự đầu tiên của phương Tây. Những thành công đáng kinh ngạc trên chiến trường của Ukraine vào tháng 9 và tháng 10/2022 đã mở ra cơ hội cho những đợt hỗ trợ thậm chí còn tham vọng hơn.
Một liên minh gồm các quốc gia giàu có với công nghệ tiên tiến nhất thế giới đã mang lại lợi thế chủ chốt cho Ukraine. Trái lại, chỉ có hai quốc gia – Iran và Triều Tiên – công khai hỗ trợ Nga trong cuộc chiến, mặc dù Trung Quốc vừa là điểm tựa kinh tế quan trọng cho nỗ lực chiến tranh của Điện Kremlin, vừa là nhà cung cấp viện trợ quân sự phi sát thương. Tuy nhiên, sự hỗ trợ quân sự của phương Tây cũng đi kèm với những rủi ro và thách thức riêng. Một là Ukraine phụ thuộc quá mức vào hỗ trợ tài chính và quân sự của phương Tây. Quân đội Ukraine đã từ bỏ cơ sở hạ tầng cũ kỹ và các học thuyết lỗi thời được định hình từ thời kỳ hậu Liên Xô, chuyển sang phụ thuộc nặng nề vào thiết bị và kế hoạch chiến lược của phương Tây. Trong khi đó, Nga đang tiến hành chiến tranh kinh tế với Ukraine – nền kinh tế nước này sẽ khó có thể vận hành nếu không có hỗ trợ quốc tế.
Việc duy trì cam kết của các nước phương Tây với Ukraine cũng không được đảm bảo. Các khu vực bầu cử chính trị ở châu Âu và Mỹ đang đặt câu hỏi về việc hỗ trợ lâu dài cho Ukraine. Cho đến nay, những ý kiến như vậy vẫn chỉ là thiểu số, nhưng đang ngày càng gia tăng và phổ biến hơn. Việc thúc đẩy các quan điểm công khai thân Nga và chống Ukraine vẫn là điều hiếm thấy về mặt chính trị. Thay vào đó, chủ nghĩa hoài nghi có xu hướng xuất hiện từ các cuộc tranh luận chính trị trong nước kéo dài. Tại Mỹ, cuộc chiến ở Ukraine đã trở thành điểm nóng mới nhất trong cuộc tranh luận về việc nước này nên quan tâm (và chi tiền) hỗ trợ các đối tác và đồng minh nước ngoài đến mức nào. Ở châu Âu, đại dịch COVID-19 và lạm phát cao sau chiến tranh gây ra sức ép kinh tế. Sự lạc quan về thành công của Ukraine đã bắt đầu lung lay, dẫn đến lo ngại về một cuộc chiến lớn và không có hồi kết ở châu Âu.
Trong khi đó, những diễn biến ở tiền tuyến – đặc biệt là tốc độ tương đối chậm và những thành công khiêm tốn trong các cuộc phản công của Ukraine được phát động vào đầu mùa Hè năm 2023 – đã làm tăng thêm hoài nghi về sự hỗ trợ của phương Tây cho Kiev. Ngay cả khi các cuộc phản công được đẩy mạnh, trận chiến cũng không sớm kết thúc. Những người ủng hộ Ukraine cũng không có giả định rõ ràng và thống nhất về một chiến thắng, từ đó gây ra bất lợi về chính trị. Bên ngoài Ukraine, những câu chuyện khác ngoài cuộc chiến đang chiếm lĩnh các mặt báo. Xung đột càng kéo dài, thế trận “châu chấu đá voi” của những ngày đầu sẽ dần biến mất, làm gia tăng cảm giác vô vọng và thúc đẩy những lời kêu gọi tìm kiếm một giải pháp dù là hời hợt đi nữa.
Rủi ro chính với Ukraine không phải là sự thay đổi chính trị đột ngột của phương Tây, mà là sự tan rã chậm chạp của một mạng lưới viện trợ nước ngoài vốn được thêu dệt cẩn thận. Tuy nhiên, nếu có sự thay đổi đột ngột xảy ra, nó sẽ mở đầu từ Mỹ, khi định hướng cơ bản trong chính sách đối ngoại của nước này được đưa ra trong cuộc bỏ phiếu vào tháng 11/2024. Trước mối nguy hiểm mà ngay cả việc mất dần sự ủng hộ cũng có khả năng gây ra chứ chưa nói đến một sự thay đổi đột ngột, Chính phủ Ukraine nên đa dạng hóa phạm vi tiếp cận của nước này về mặt chính trị, thay đổi lời kêu gọi giúp đỡ của mình cho phù hợp với viễn cảnh một cuộc chiến kéo dài. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo chính trị tại Mỹ và châu Âu nên làm những gì có thể để tăng cường hỗ trợ tài chính và quân sự cho Ukraine trong chu kỳ ngân sách dài hạn, khiến các quan chức trong tương lai khó có thể hủy bỏ hỗ trợ.
Bạn bè thời vụ?
Ở châu Âu, Mỹ là nguồn cơn gây lo lắng, có thể là mắt xích yếu trong chuỗi xuyên Đại Tây Dương. Trớ trêu thay, các nước châu Âu lại gây ra nỗi lo tương tự ở Washington. Việc trợ giúp hết sức cho Ukraine đã trở thành đặc trưng của chính phủ Phần Lan, Ba Lan, Thụy Điển, Anh và các quốc gia vùng Baltic. Những lo ngại rằng chính phủ cực hữu sẽ đảo ngược đường lối của Italy về Ukraine đã được chứng minh là vô căn cứ. Thay vào đó, Thủ tướng Giorgia Meloni đã tái khẳng định đường lối của phương Tây. Xét tới việc cuộc chiến của Putin không được lòng dân Pháp như thế nào, ngay cả nhân vật đối lập chính của Pháp theo chủ nghĩa dân túy cực hữu Marine Le Pen – người từng đã ủng hộ Putin và thậm chí còn tán thành việc sáp nhập Crimea vào năm 2014 – vẫn giữ nguyên quan điểm chỉ trích trước đó đối với cuộc tấn công toàn diện. Tuy nhiên, bà phản đối các biện pháp trừng phạt và việc chuyển vũ khí hạng nặng tới Ukraine. Hungary vẫn đứng ngoài, dù là một thành viên của EU và NATO nhưng rõ ràng không nhiệt tình với mục tiêu của Ukraine. Để đổi lại việc không phá vỡ sự đồng thuận ở Brussels về việc ủng hộ trừng phạt Nga, Hungary đã nhận được nhiều nhượng bộ từ EU. Cho đến nay, điều này đã đủ để giữ chân Thủ tướng Viktor Orban.
Sự hỗ trợ vững chắc của châu Âu dường như khó có thể sớm thay đổi. Theo một cuộc khảo sát vào tháng 6/2023 của Eurobarometer, 64% người dân EU ủng hộ tài trợ cho việc mua và cung cấp thiết bị quân sự cho Ukraine. Con số này thấp nhất là 30% ở Bulgaria và cao nhất là 93% ở Thụy Điển. Không có đảng châu Âu nào ủng hộ chương trình nghị sự công khai thân Nga mà có thể xây dựng được một liên minh bầu cử bền vững. Quả thực, đa phần công chúng ở châu Âu đang ngày càng ủng hộ EU và NATO hơn kể từ khi chiến tranh bắt đầu.
Tuy nhiên, một trạng thái gần như kiệt sức đang ảnh hưởng đến châu Âu. Ví dụ điển hình nhất là Đức, quốc gia đã vượt qua tình trạng tắc nghẽn năng lượng do cuộc chiến gây ra và đã tiếp nhận một triệu người tị nạn Ukraine đồng thời tăng dần hỗ trợ cho nước này. Giống như trong đại dịch, chính giai đoạn khủng hoảng kéo dài đã gây ra sự thất vọng: giá năng lượng tăng cao, suy thoái kinh tế, lo ngại về vấn đề phi công nghiệp hóa và liên minh cầm quyền hoạt động kém hiệu quả đã gây ra tình trạng bất ổn, từ đó tạo thuận lợi cho đảng cực hữu Sự lựa chọn vì nước Đức (AfD). Theo các cuộc thăm dò, đảng này hiện là đảng mạnh thứ hai ở Đức. Đảng AfD muốn rút Đức khỏi NATO và ngừng hỗ trợ cho Ukraine, nhưng sự ủng hộ dành cho đảng này không xuất phát từ quan điểm thân Nga của họ. Đảng này khai thác sự bất mãn chung để khiến việc chỉ trích chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa Đại Tây Dương của Đức có vẻ chính thống hơn.
Đối với châu Âu, cuộc chiến càng kéo dài thì càng khó giải quyết cũng như càng tốn kém, và càng trở thành phương tiện cho quyền lực của Mỹ hơn là vì lợi ích cốt lõi của châu Âu. Vì quan điểm ủng hộ cuộc chiến vẫn giữ nguyên ở châu Âu nên các chính trị gia có đầu óc kinh doanh có thể tập trung vào trong nước và đổ lỗi cho giới tinh hoa ở các thành phố thủ đô và Brussels vì quan tâm đến Ukraine hơn chính người dân của họ. Ví dụ, một nghị sĩ cánh tả nổi tiếng trong quốc hội Đức Sahra Wagenknecht gần đây so sánh sự hỗ trợ cho Ukraine như một cái hố không đáy, trong khi ngân sách liên bang bị cắt giảm trong mọi lĩnh vực khác. Những quan điểm này có thể dễ dàng trở nên phổ biến ở châu Âu, và những người ủng hộ chúng sẽ không cần đưa ra một chính sách thay thế khả thi nào; họ thậm chí không cần phải nói thật. Sẽ không cần đến một nhà mị dân đặc biệt giỏi để thuyết phục những người dân châu Âu đang chịu sức ép kinh tế rằng có cách để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến và việc chấm dứt chiến tranh sẽ giải thoát họ khỏi nỗi khổ sở họ đang gặp phải, chẳng hạn như lạm phát cao.
Yếu tố khó đoán trong cuộc chiến chính là Mỹ. Trong các cuộc thăm dò gần đây, Tổng thống Joe Biden hoặc là xếp sau, hoặc là ngang bằng với cựu Tổng thống Donald Trump. Sự trở lại của Trump có thể sẽ là tai họa cho Ukraine. Trên cương vị tổng thống, Trump coi Ukraine như một phần phụ trong chiến dịch tái tranh cử của mình và cố gắng ép Zelensky phải làm tổn hại danh tiếng của Biden – đối thủ chính của Trump vào thời điểm đó. Theo tờ The New York Times, Trump đã nhiều lần đề xuất rút Mỹ khỏi NATO trước mặt các quan chức chính quyền cấp cao trong các cuộc trò chuyện riêng trong năm 2018. Ông chưa bao giờ làm theo ý tưởng này. Nhưng xét tới luận điệu của ông trong quá trình tranh cử, ông dường như quyết tâm tiến xa hơn nữa trong việc phá vỡ các chuẩn mực và truyền thống đã được thiết lập nếu ông quay trở lại Nhà Trắng. Và trong những tháng gần đây, Trump đã gợi ý rằng ông có thể kết thúc cuộc chiến ở Ukraine sau 24 giờ. Sự ồn ào trong chiến dịch tranh cử như vậy cho thấy rằng Trump thích giải pháp thương lượng để giải quyết cuộc xung đột (nhiều khả năng sẽ theo các điều kiện của Nga) hơn là việc tiếp tục viện trợ và hỗ trợ đều đặn cho Ukraine.
Trump có thể không trở thành ứng cử viên của đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong số các ứng cử viên khác, hai người có tỷ lệ ủng hộ cao nhất - Thống đốc bang Florida Ron DeSantis và doanh nhân Vivek Ramaswamy - lại là những người có thái độ chối bỏ Ukraine nhất. Cánh Reaganite của đảng Cộng hòa - những người ủng hộ việc bảo vệ mạnh mẽ các nền dân chủ đồng minh và bao gồm các nhân vật như cựu Phó Tổng thống Mike Pence và Thượng nghị sĩ Mitch McConnell của Kentucky - vẫn có sự hiện diện đáng kể ở Đồi Capitol và các tổ chức tư vấn ở Washington. Nhưng trong số các cử tri sơ bộ của đảng Cộng hòa, quan điểm này không còn được ủng hộ nữa. Phe Cộng hòa coi Trung Quốc là mối đe dọa lớn hơn nhiều so với Nga và nhiều thành viên đảng Cộng hòa nhận thấy sự đánh đổi giữa việc ủng hộ Ukraine và giải quyết các vấn đề trong nước. Theo một cuộc thăm dò do Gallup công bố vào tháng 6/2023, 50% đảng viên Cộng hòa tin rằng Mỹ đang hỗ trợ quá mức cho Ukraine, tăng từ mức 43% khi bắt đầu chiến tranh. 49% đảng viên Cộng hòa muốn kết thúc xung đột một cách nhanh chóng, ngay cả khi làm như vậy sẽ cho phép Nga giữ lại lãnh thổ đã chiếm được.
Ramaswamy viết vào tháng 8/2023, lặp lại một điệp khúc đã trở nên phổ biến trên các phương tiện truyền thông Mỹ: “Chúng ta đang cố gắng sử dụng nguồn lực quân sự Mỹ để bảo vệ trước một cuộc tấn công biên giới ở nước khác trong khi lại hoàn toàn không làm gì để ngăn chặn cuộc xâm lược do các băng đảng tiếp tay ở ngay biên giới phía Nam của chúng ta”. Lập luận này có thể nông cạn và bài ngoại, nhưng lại thu hút mạnh mẽ nhiều đảng viên Cộng hòa và những người bảo thủ. Lập luận này có thể gây được tiếng vang với nhiều người có tư tưởng độc lập và thậm chí cả một số đảng viên Dân chủ và những người cấp tiến.
Vấn đề cam kết
Việc phương Tây cắt giảm hỗ trợ cho Ukraine sẽ không kết thúc cuộc chiến. Không có quốc gia phương Tây nào thực sự chiến đấu ở Ukraine, và mặc dù vũ khí cũng như tiền viện trợ của phương Tây đóng một vai trò chủ chốt, nhưng ngay từ đầu đây đã là cuộc chiến của Ukraine. Chính người Ukraine đã thể hiện lòng dũng cảm và sự hi sinh phi thường. Dù phương Tây có hỗ trợ hay không, Ukraine cũng sẽ phải đối mặt với tình trạng khó khăn tương tự: một đối thủ không chấp nhận sự tồn tại của quốc gia Ukraine, tính hợp pháp của văn hóa Ukraine hay tiếng Ukraine, và đối thủ này đã tự cho phép mình tấn công thường dân – để lại những hậu quả khủng khiếp. Ukraine phải đấu tranh với đối thủ này bằng mọi cách có thể. Cho đến khi có lãnh đạo điện Kremlin mới, Ukraine không còn lựa chọn nào khác ngoài sử dụng vũ lực để chống lại Nga.
Không có phương Tây hậu thuẫn, Ukraine sẽ đối mặt với hai vấn đề nan giải. Một là các thách thức của việc phải chiến đấu khi trang thiết bị của phương Tây trở nên đắt hơn hoặc ít có sẵn, hoặc vừa đắt vừa không có sẵn. Binh sĩ Ukraine đã dành thời gian đáng kể để huấn luyện sử dụng thiết bị của phương Tây. Các chiến lược gia Ukraine đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự trợ giúp và chia sẻ tin tình báo mà nước này nhận được từ Mỹ và các nước khác. Việc truy cập Internet trên chiến trường thường được thực hiện thông qua Starlink - công nghệ do doanh nhân công nghệ Mỹ Elon Musk cung cấp miễn phí trong một thời gian (có giới hạn) và gần đây Lầu Năm Góc đã quyết định chi trả. Nếu châu Âu hoặc Mỹ (hoặc cả hai) cắt đứt viện trợ cho Ukraine, thì nước này sẽ chịu tổn thất khôn lường về sức mạnh quân sự.
Vấn đề nan giải thứ hai sẽ vượt ra ngoài Ukraine. Sự ủng hộ của phương Tây cho Ukraine và sự tự nhận thức của Nga có liên hệ sâu sắc với nhau. Cuộc tấn công của Putin không chỉ là một cuộc đánh cược rằng Ukraine sẽ sụp đổ và Nga có thể kiểm soát hoặc chia cắt nước này. Đó còn là một cuộc đánh cược vào phương Tây và đặc biệt vào Mỹ khi nước này cuối cùng từ bỏ nỗ lực thất bại ở Afghanistan sau một cuộc chiến kéo dài và phức tạp, vài tháng trước khi Nga tấn ông. Putin đang đặt cược chống lại sự nhạy bén chiến lược và lòng kiên nhẫn của Mỹ và rộng ra là của NATO. Nếu Mỹ và các thành viên NATO hết kiên nhẫn ở Ukraine, Nga có thể tuyên bố cuộc chiến này là một chiến thắng chiến lược ngay cả khi Nga vẫn mắc kẹt trong cuộc xung đột ở Ukraine, và đối với phạm vi toàn cầu, đây có thể coi là chiến thắng cho Nga.
Nếu sự ủng hộ dành cho Ukraine giảm dần ở châu Âu nhưng không giảm ở Mỹ, Nga có thể theo đuổi cách tiếp cận “chia để trị”. Nước này có thể đề xuất một giải pháp thương lượng giả tạo, tạm dừng giao tranh hoặc “ngoại giao thuốc độc” – như Nga đã tiến hành vào năm 2014 và 2015, khi nước này tạo ấn tượng là sẵn sàng thỏa hiệp nhưng thực tế lại đang tìm cách chiếm lấy Ukraine. Ý định của Nga là chia rẽ chính phủ một số nước châu Âu với Mỹ và chia rẽ Tây Âu với Đông Âu. Một châu Âu xung đột với Mỹ và một châu Âu xung đột nội bộ sẽ là nơi lý tưởng cho các nỗ lực của Nga (thông qua thao túng và gián điệp) nhằm bình thường hóa việc sáp nhập lãnh thổ Ukraine vào Nga. Tuy nhiên, nếu sự hỗ trợ và lãnh đạo của Mỹ được giữ vững, Ukraine sẽ có một nền tảng vững chắc. Tây Âu sẽ không thể tiếp cận với Nga hay đàm phán một thỏa thuận với Nga sau lưng Ukraine nếu Mỹ phản đối kết quả này.
Việc Ukraine mất đi sự hỗ trợ từ Mỹ, không phải từ châu Âu, sẽ mang lại tác động mạnh mẽ hơn. Các thành viên và tổ chức của EU hiện đã cam kết gần như gấp đôi tổng viện trợ Mỹ dành cho Ukraine (cả về tài chính, quân sự hay nhân đạo), thông qua các gói viện trợ kéo dài nhiều năm. Nhưng các cam kết quân sự của Mỹ sánh ngang với cam kết quân sự của tất cả các nước EU dành cho Ukraine. Châu Âu không thể thay thế sự hỗ trợ quân sự của Mỹ trên quy mô lớn như vậy và sẽ gặp khó khăn trong việc lấp đầy khoảng trống lãnh đạo. Nếu Mỹ cố gắng ép buộc các bên giải quyết thông qua đàm phán vấn đề Ukraine, châu Âu sẽ có rất ít khả năng chống lại. Một giải pháp thiển cận hay vội vàng sẽ gây nguy hiểm cho an ninh của Ukraine cũng như an ninh của châu Âu. Dưới góc nhìn của Nga, một giải pháp như vậy có thể chứng minh rằng mức độ cam kết của Mỹ đối với an ninh châu Âu đang giảm dần.
Vũ khí bí mật của Putin
Ukraine hầu như không thể tác động đến các vấn đề chính trị nội bộ của các đối tác thời chiến. Mặc dù không ai có thể trình bày vấn đề của Ukraine tốt hơn Zelensky, nhưng dư luận và các cuộc bầu cử ở châu Âu hoặc Mỹ sẽ tuân theo lý lẽ nội bộ của các quốc gia này. Chính phủ Ukraine nên vun đắp quan hệ với các nhân vật và chính đảng không ủng hộ Ukraine mạnh mẽ, bao gồm cả các đảng cực tả và cực hữu, giống như Chính phủ Ukraine đã phát triển quan hệ với Trung Quốc trong chiến tranh, bất chấp sự gần gũi của Trung Quốc với Nga. Bằng cách này, Kiev có thể chống lại sự phân cực chính trị mà có nguy cơ làm giảm dần sự ủng hộ dành cho Ukraine.
Khi Zelensky lên nắm quyền năm 2019, ông gần như ngay lập tức bị cuốn vào những âm mưu chính trị từ Washington – nhưng ông đã vượt qua để lãnh đạo Ukraine khi đất nước cần ông nhất. Zelensky giỏi trong việc không liên kết quá chặt chẽ với bất kỳ đảng phái chính trị nào. Đối với các khu vực bầu cử chưa xuôi theo việc ủng hộ cuộc chiến, ví dụ như các đảng cánh tả ở Đức, cực hữu ở Pháp, và các đảng dân túy đang nổi lên ở một số nước như Slovakia, Zelensky nên nhấn mạnh đến phí tổn kinh tế và quân sự khổng lồ mà từng nước phương Tây phải chịu nếu Nga chiến thắng ở Ukraine, nhất là phí tổn do làn sóng di cư ồ ạt từ Ukraine.
Ở Washington và các thủ đô châu Âu, sự ủng hộ cho Ukraine không thể được duy trì vĩnh viễn. Tất cả các lựa chọn chính sách đối ngoại sẽ được đưa ra thử thách trong các cuộc bầu cử, nhưng một số ưu tiên có thể được bảo vệ. Việc hỗ trợ tài chính và đảm bảo an ninh cho Ukraine có thể được đưa vào các luật và dự luật ngân sách dài hạn. Ví dụ như trong EU, Ủy ban châu Âu đã đề xuất phân bổ hơn 50 tỷ USD để phục hồi, tái thiết và hiện đại hóa Ukraine trong giai đoạn 2024-2027. Brussels và các nước thành viên EU nên mở rộng những cam kết nhiều năm này trong tương lai.
Không cuộc bầu cử nào, ngay cả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2024, là một cuộc trưng cầu dân ý mang tính sống còn với chính sách của phương Tây: Trump đã vận động tranh cử năm 2016 dựa trên việc nối lại quan hệ hợp tác với Nga và rốt cuộc Mỹ đã viện trợ vũ khí sát thương cho Ukraine. Việc phân chia quyền lực và các cuộc bầu cử định kỳ chính là những biện pháp bảo vệ dân chủ trước tình huống xấu nhất. Bất kể hiện trạng ở phương Tây có giữ nguyên hay không, các quan chức vẫn phải đưa ra lý do giúp đỡ Ukraine một các liên tục và sáng tạo.
Khi xung đột kéo dài, Ukraine sẽ phải điều chỉnh câu chuyện về cuộc chiến của mình cho phù hợp với công chúng phương Tây. Thay vì một chiến thắng nhanh chóng và quyết đoán như nhiều người hy vọng khi cuộc phản công mùa Hè mới diễn ra, Kiev sẽ cần phải giải thích về kết cục của một cuộc chiến kéo dài, vốn là vấn đề sống còn của Ukraine. Nếu không, cảm giác xa cách có thể xuất hiện, đặc biệt nếu chiến tranh ngày càng chuyển sang lãnh thổ Nga thông qua các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái cũng như các loại hình tấn công khác. Mặc dù có thể là cần thiết cho khả năng tự vệ và nâng cao tinh thần cho người Ukraine, những cuộc tấn công như thế này có thể gây nhiều hệ quả chính trị nếu chúng góp phần vào tư tưởng “tại anh, tại ả” trong các cuộc tranh luận ở phương Tây.
Vào năm 2015, sau khi cuộc giao tranh tồi tệ nhất ở miền Đông Ukraine kết thúc sau một thỏa thuận ngừng bắn với đầy thiếu sót, phương Tây đã mắc lỗi cơ bản, đó là thiếu sự quan tâm. Bằng cách nào đó, cuộc khủng hoảng này đáng lẽ đã tự chấm dứt. Từ đây, Putin đã học được điều mà ông cho là sự thật thiết yếu về tính hay thay đổi của các nhà lãnh đạo phương Tây. Trong tương lai, châu Âu và Mỹ phải tiếp tục chứng minh rằng Putin đã đưa ra kết luận sai lầm. Ngăn chặn Nga và bảo vệ chủ quyền của Ukraine là lợi ích hàng đầu của phương Tây. Những điều này không thể chỉ phụ thuộc vào các hình ảnh bạo lực khủng khiếp, vào sự chú ý liên tục của truyền thông hay vào sức hút của bất kỳ chính trị gia Ukraine nào. Sự thờ ơ và thiếu kiên nhẫn của phương Tây là vũ khí tối thượng của Putin. Không có những điều đó, Putin sẽ phải đối mặt với ngõ cụt trong chiến lược./.
Thoibaovietuc.com/Nguồn Foreign Affairs
Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved