Cuộc chiến gián điệp mới của Trung Quốc và Nga

Thứ Bảy, 17/05/2025

4:32 am(VN)

-

7:32 am(AU)

dropdown weather

Đang hiển thị

Thành phố khác

Rao vặt
VN EN

Cuộc chiến gián điệp mới của Trung Quốc và Nga

23/12/2023

Chiến tranh Lạnh không bao giờ kết thúc. Ít nhất đó là quan điểm của Tổng thống Nga Vladimir Putin. Có thể nhận thấy dấu hiệu rõ ràng nhất của việc Điện Kremlin tiếp tục cuộc chiến quy mô lớn chống lại phương Tây, ngay cả khi Liên Xô đã sụp đổ, trong hoạt động của các cơ quan tình báo và an ninh Nga. Các cơ quan này đã tiếp tục sự nghiệp của cơ quan tình báo Liên Xô, và điều đó được thể hiện rõ nét qua hoạt động và ảnh hưởng của họ trong xã hội Nga. Kể từ năm 1991, động lực thúc đẩy hoạt động của những cơ quan này là chiến lược phục thù nhằm làm cho nước Nga vĩ đại trở lại và đảo ngược trật tự quốc tế do Mỹ lãnh đạo sau Chiến tranh Lạnh. Cuộc chiến của Putin ở Ukraine là kết cục đẫm máu của chiến lược đó.


Trung Quốc cũng đang tìm cách đảo ngược kết quả của Chiến tranh Lạnh. Với liên minh “không giới hạn” được tuyên bố ngay trước khi Nga tiến hành cuộc xâm lược Ukraine, Tổng thống Nga Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang tìm cách thay đổi hệ thống quốc tế – và họ đang dựa nhiều vào các cơ quan tình báo để đạt được mục tiêu này. Các cơ quan tình báo có thể làm điều mà các cơ quan chính phủ khác không thể làm được: thực hiện chính sách đối ngoại không được công khai. Tình báo Nga và Trung Quốc đều làm vậy để đạt được mục tiêu của mình theo chủ nghĩa xét lại, lợi dụng việc Mỹ đang bị phân tâm vì “cuộc chiến chống khủng bố” để phá hoại an ninh nước này, làm suy yếu các nền dân chủ phương Tây và đánh cắp càng nhiều càng tốt các bí mật khoa học và kỹ thuật.


Người của Sa hoàng


Các cơ quan tình báo của Nga tự cho mình là “người kế thừa” Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô (KGB). Mặc dù KGB đã bị giải tán vào năm 1991, nhưng nhiều cựu sĩ quan cũng như bí quyết nghề nghiệp, hồ sơ và điệp viên của cơ quan này ở phương Tây đã được chuyển đến cơ quan an ninh mới của Nga (hiện được gọi là FSB) và cơ quan tình báo nước ngoài (SVR). Trong nhiều năm kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cơ quan tình báo Nga tiếp tục quản lý các cựu đặc vụ Liên Xô ở các nước phương Tây, bao gồm cả đặc vụ Aldrich Ames hoạt động trong Cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) và đặc vụ Robert Hanssen hoạt động trong Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI). Đó là chuyện bình thường đối với Nga. Giám đốc đầu tiên của SVR, cựu sĩ quan KGB Yevgeny Primakov, đã tiếp tục truyền thống ép buộc và tống tiền của KGB – những chiến thuật mà chính ông là nạn nhân khi còn trẻ. Theo tài liệu thu thập được từ kho lưu trữ của KGB, Primakov bị ép buộc phải làm việc cho cơ quan này khi đang hoạt động báo chí ở Trung Đông vào những năm 1960. Người sáng lập FSB, Rem Krassilnikov, cũng là cựu sĩ quan KGB và là tín đồ thực sự của chủ nghĩa cộng sản; vợ ông tên là Ninel, viết ngược lại thành Lenin. Theo một người từng đào ngũ khỏi FSB và làm việc dưới quyền Krassilnikov vào những năm 1990, FSB đã sử dụng các tài liệu huấn luyện của KGB, nhưng bỏ đi các phần về tư tưởng liên quan đến chủ nghĩa cộng sản.


Chính kinh nghiệm hoạt động của Putin trong KGB đã định hình sự nghiệp chính trị của ông sau này. Khi hoạt động ở Dresden thuộc Đông Đức – địa bàn phụ của KGB, vì mọi hoạt động thực sự của cơ quan này diễn ra ở Đông Berlin – Putin đã tận mắt chứng kiến sự tan rã của Liên Xô. Như phát biểu của ông sau này, đó là thảm họa lớn nhất của thế kỷ 20. Putin tự cho mình là thành viên của Cheka, lực lượng an ninh đầu tiên của Liên Xô, và cho đặt bức tượng người sáng lập Cheka, Felix Dzerzhinsky, trong văn phòng của mình khi ông còn là giám đốc FSB. Cho đến nay, Putin vẫn giữ dáng đi giống như điệp viên FSB, tay trái đung đưa trong khi tay phải gần như bất động, để mọi người biết rằng ông đã được huấn luyện.


Giống như nhiều người Nga, Putin mắc hội chứng “đau chi ma” (cảm giác đau ở phần cơ thể đã không còn – ND) kể từ khi Liên Xô sụp đổ. Vì vậy, vào những năm 1990, ông không mất nhiều thời gian để thuyết phục bản thân rằng NATO có thái độ thù địch với Moskva. Tình báo Liên Xô từng gọi Mỹ là “kẻ thù chính” – và một khi là kẻ thù chính thì mãi mãi là kẻ thù chính. Vào những năm 1990, các cơ quan tình báo Nga có thái độ hung hăng đối với Mỹ hơn KGB trong thời kỳ Liên Xô. Không gì có thể nuôi dưỡng thái độ hung hăng bằng sự sỉ nhục.


Cuối những năm 1990, SVR đã sử dụng Internet để truyền bá thông tin sai lệch nhằm làm giảm uy tín của Mỹ. Các sĩ quan SVR hoạt động tại Mỹ đã “oanh tạc” các cơ quan truyền thông và bảng tin của Mỹ với các chủ đề lấy cảm hứng từ kịch bản tuyên truyền của Liên Xô, bao gồm cả chương trình nghị sự bí mật mang tính phân biệt chủng tộc của Chính phủ Mỹ và chương trình phát triển bất hợp pháp vũ khí sinh học của nước này. Khoảng năm 1996, các tin tặc Nga đã xúi giục vụ tấn công quy mô lớn nhằm vào cơ sở dữ liệu nhạy cảm của Chính phủ Mỹ, bao gồm cả cơ sở dữ liệu của NASA và Lầu Năm Góc.


Tất nhiên, tình báo Mỹ không ngồi yên. Khi nền kinh tế Nga suy thoái cuối những năm 1990, CIA đã lôi kéo được một số tân binh người Nga có giá trị, những người sẵn sàng vì tiền mà phản bội cấp trên và cản trở hoạt động tình báo của Moskva chống lại phương Tây. Nhưng rồi sự kiện 11/9 xảy ra.


Bị che mắt bởi cuộc chiến


Lúc đầu, cuộc chiến chống khủng bố dường như là cơ hội để thiết lập lại và tăng cường hợp tác tình báo Mỹ-Nga. Sau cuộc gặp đầu tiên với Tổng thống Nga Putin năm 2001, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã đưa ra nhận xét nổi tiếng rằng ông có thể hiểu được tâm tư của Putin và cho rằng nhà lãnh đạo Nga là người đáng tin cậy. Các cơ quan tình báo Nga ban đầu hợp tác với Mỹ để chống khủng bố. Nhưng theo các quan chức CIA, khoảng thời gian tốt đẹp của quan hệ tình báo Mỹ-Nga sau sự kiện 11/9 không kéo dài và nhanh chóng nhường chỗ cho giai đoạn Nga ngấm ngầm gây hấn. Trong khi đó, Washington lại phớt lờ sự chuyển biến như vậy. Trong suốt cuộc chiến chống khủng bố, Chính phủ Mỹ dành nhiều nguồn lực cho cuộc chiến chống khủng bố với cái giá phải trả là nỗ lực đối phó với mối đe dọa từ các cường quốc đang trỗi dậy như Nga và Trung Quốc.


Nhiều đồng minh của Mỹ, bao gồm cả Anh, cũng vậy. Theo báo cáo năm 2020 của Ủy ban An ninh và tình báo quốc hội, cơ quan an ninh MI5 của Anh đã dành tới 92% thời lượng công tác cho hoạt động chống khủng bố năm 2006. Cũng vào năm này, cựu sĩ quan FSB Alexander Litvinenko đã bị ám sát ở London bằng chất phóng xạ poloni. Sau đó, cơ quan điều tra Anh phát hiện ra rằng chính Putin vả cả người đứng đầu FSB lúc bấy giờ là Nikolai Patrushev, cựu sĩ quan KGB và hiện là thành viên hội đồng an ninh quốc gia của Putin, có thể đã phê duyệt vụ ám sát này. Không có dữ liệu công khai tương ứng về cách các cơ quan tình báo Mỹ phân chia sự chú ý và nguồn lực cho công tác chống khủng bố và các ưu tiên khác sau ngày 11/9, nhưng các sĩ quan tình báo Mỹ cho hay chống khủng bố là trọng tâm của cộng đồng tình báo Mỹ. Cuối năm 2017, chống khủng bố vẫn là hoạt động nhận được nhiều ngân sách nhất của Văn phòng Giám đốc tình báo quốc gia Mỹ.


Putin có biệt tài che giấu các cường quốc phương Tây thực tế là sau sự kiện 11/9 rằng mặc dù đang hợp tác chống khủng bố, nhưng ông cũng đang sử dụng cơ quan tình báo Nga để củng cố chế độ độc tài của mình và đưa nước Nga trở lại vị trí cường quốc. Trong nước, ông bịt miệng những người bất đồng chính kiến, đàn áp báo chí tự do và loại bỏ đối thủ, theo truyền thống của chủ nghĩa Stalin là “không có người thì không có vấn đề gì”. Ở những khu vực gần và xa nước Nga, Putin tìm cách ngăn chặn sự mở rộng của NATO và sự lật đổ của Mỹ ở Đông Âu bằng cách xâm lược Gruzia năm 2008, sáp nhập Crimea năm 2014 và tấn công phần còn lại của Ukraine năm 2022. Sự mở rộng của NATO khiến Putin lo ngại về sự lật đổ của phương Tây, nhưng thật hão huyền khi cho rằng Nga sẽ là một bên tham gia hòa bình hoặc có trách nhiệm trong chính trị toàn cầu nếu liên minh này không mở rộng. Putin đã điều hành nước Nga như một chế độ mafia quân phiệt.


Kể từ khi lên nắm quyền cách đây 3 thập kỷ, Putin đã biến các cơ quan an ninh và tình báo Nga thành một “quốc gia trong quốc gia”. Ông dựa vào một nhóm quyền lực giống như lực lượng Cheka, gồm những người hoạt động trong các cơ quan tình báo và quân đội cũng như những người có ảnh hưởng đáng kể trong chế độ của ông. Theo nguồn tin nội bộ CIA, đa số các nhà kỹ trị của Điện Kremlin điều hành nền kinh tế Nga trong năm 2020 đều có xuất thân như vậy.


Do đó, không có gì ngạc nhiên khi chiến lược và chiến thuật của Nga đều bắt nguồn từ sách lược của Liên Xô, nhưng đã được cập nhật cho phù hợp với thời đại số. Phương tiện truyền thông xã hội và kết nối số là những phương tiện mới mẻ giúp Nga thực hiện các mục tiêu đã được xác định từ lâu, mang lại cho các cơ quan gián điệp Nga khả năng mà KGB hẳn là chỉ có thể mơ ước có được. Putin đã cho tiến hành nhiều hoạt động bí mật nhằm lật đổ các đối thủ ở phương Tây. Ông đã can thiệp vào các cuộc bầu cử dân chủ ở phương Tây, đáng chú ý nhất là cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, và đây là sự tiếp nối truyền thống của Liên Xô ít nhất từ năm 1948. Putin cũng duy trì thông lệ của Liên Xô là tạo lớp vỏ bọc khó bóc trần cho “những kẻ hoạt động bất hợp pháp” ở các nước phương Tây – một vài người trong số này đã bị bắt và đưa trở lại Moskva trong các vụ trao đổi gián điệp giống như trong Chiến tranh Lạnh của thế kỷ trước.


Mặc dù Putin muốn được biết đến như là một điệp viên bậc thầy, nhưng trên thực tế ông đã hứng chịu nhiều thất bại trong hoạt động tình báo. Ví dụ, năm 2010, FBI và CIA đã phá vỡ một mạng lưới những người Nga hoạt động bất hợp pháp ở Mỹ nhờ những thông tin bí mật do một sĩ quan chủ chốt của SVR cung cấp. Thế nhưng, Putin đã vấp phải thất bại tình báo lớn nhất trước khi quyết định xâm lược Ukraine hồi tháng 2/2022. Các cơ quan tình báo Mỹ và Anh đã tổng hợp thành công và phơi bày các kế hoạch chiến tranh của Putin với thế giới, do đó loại bỏ khả năng Putin viện cớ để tiến hành xâm lược.


Nếu ai đó có được thông tin tình báo mà Putin được cung cấp trước khi cuộc chiến ở Ukraine diễn ra, thì người đó hẳn sẽ không ngạc nhiên khi nhận thấy rằng thông tin đó xác nhận, thay vì mâu thuẫn với việc ông đánh giá quá cao sức mạnh quân sự của Nga. Sự thật gần như không có cơ hội đến tai Putin, giống như Stalin. Bản chất tàn bạo của chế độ Putin khiến xung quanh ông chỉ toàn những kẻ bợ đỡ. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, tình báo Nga phải hứng chịu một loạt thất bại trong hoạt động, bao gồm cả việc các mạng lưới gián điệp của họ ở Na Uy, Thụy Điển và Slovenia bị triệt phá.


Không chỉ cơ quan gián điệp cũ 


Giống như Nga, Trung Quốc cũng lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ lãnh đạo để thúc đẩy lợi ích của mình. Theo các nhân viên CIA am hiểu về Trung Quốc, cơ quan tình báo dân sự chính của Bắc Kinh, Bộ An ninh Quốc gia, đã tuyên chiến với cơ quan tình báo Mỹ vào năm 2005. Kể từ đó, trong khi Washington bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố, Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc đã đưa các nguồn lực và sĩ quan giỏi nhất của mình vào chính phủ và các tập đoàn của Mỹ, cố gắng đánh cắp càng nhiều càng tốt các bí mật khoa học và kỹ thuật để củng cố nền kinh tế và sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Họ vui mừng khi thấy Mỹ bị sa lầy ở Trung Đông và không chú ý đến những thành công ngầm của Trung Quốc.
Cuộc tấn công của Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc vào Mỹ đã sớm đạt được kết quả. Theo báo cáo điều tra do The New York Times đăng tải, năm 2010, cơ quan gián điệp Trung Quốc đã triệt phá một mạng lưới CIA quy mô lớn ở Trung Quốc, hơn 10 nhân viên tình báo Mỹ bị giết hại hoặc bỏ tù. Vẫn chưa rõ tình báo Trung Quốc đã xâm nhập mạng lưới CIA bằng cách nào, nhưng thiệt hại là điều không thể phủ nhận. 10 năm sau, một quan chức tình báo Mỹ biết rõ những sự kiện này cho biết CIA vẫn chưa khôi phục hoạt động ở Trung Quốc.


Kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, hoạt động tình báo của Trung Quốc chống lại phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đã gia tăng theo cấp số nhân. Nhiệm vụ của tình báo Trung Quốc là thực hiện đại chiến lược của Tập Cận Bình: đưa Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế-quân sự số một thế giới và đảo lộn cục diện công nghệ hiện có, khiến các nước khác phải phụ thuộc vào công nghệ Trung Quốc thay vì công nghệ Mỹ. Các cơ quan gián điệp Trung Quốc sử dụng cách tiếp cận toàn xã hội để thu thập thông tin tình báo: Họ thu thập thông tin tình báo về con người, mạng kỹ thuật số và tín hiệu (sử dụng khinh khí cầu và hiển nhiên là cả cơ sở nghe lén ở Cuba), đồng thời khai thác các nguồn công khai sẵn có như các mạng xã hội. Thông qua một loạt đạo luật an ninh quốc gia hà khắc được phê chuẩn dưới thời Tập Cận Bình, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng buộc các doanh nghiệp Trung Quốc phải hợp tác với các cơ quan tình báo bất cứ khi nào được yêu cầu, do đó hợp nhất hoạt động gián điệp và mua chuộc. Việc này dẫn tới mô hình chuyên chế trọng thương của Trung Quốc không tương đồng với mô hình ở phương Tây. ĐCSTQ sử dụng các chương trình tài năng và trao đổi văn hóa làm vỏ bọc cho hoạt động gián điệp. Bắc Kinh cũng tận dụng cộng đồng người Trung Quốc ở các nước phương Tây, gây áp lực buộc họ phải cung cấp thông tin tình báo, thường là bằng cách tống tiền hoặc đe dọa người thân của họ ở Trung Quốc.


Theo FBI, dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc trở thành “kẻ trộm mạng” hàng đầu thế giới – họ đánh cắp lượng dữ liệu của các cá nhân và doanh nghiệp Mỹ lớn hơn nhiều so với tất cả các quốc gia khác cộng lại. Năm 2021, FBI thông báo sẽ mở một cuộc điều tra phản gián mới liên quan đến Trung Quốc cứ sau mỗi 12 giờ. Và tháng 7/2023, Ủy ban an ninh và tình báo của Quốc hội Anh báo cáo rằng Chính phủ Trung Quốc đã thâm nhập mọi lĩnh vực của nền kinh tế Anh.


Những cụm từ như “cạnh tranh Mỹ-Trung” không phản ánh đúng thực tế vốn tồi tệ hơn nhiều. Giống như các cơ quan tình báo Nga, các cơ quan tình báo Trung Quốc cạnh tranh theo những quy tắc cơ bản khác với những quy tắc mà các cơ quan tình báo phương Tây tuân thủ. Không giống như các cơ quan gián điệp của Mỹ hoặc châu Âu, Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc không bị chi phối bởi chế độ pháp quyền hay chế độ giám sát chính trị độc lập. Bộ này cũng không có trách nhiệm giải trình trước công dân Trung Quốc hay chịu sự giám sát của báo chí tự do. Những khác biệt này có nghĩa là những tuyên bố như “tất cả các nước đều có gián điệp”, thường được sử dụng để đánh lạc hướng sự chú ý của dư luận khỏi hoạt động gián điệp của Trung Quốc, gây hiểu nhầm một cách nguy hiểm. Tất cả các đội quân đều có súng không có nghĩa là họ như nhau. Không giống như các cơ quan tình báo phương Tây, các cơ quan tình báo Trung Quốc hoặc Nga gần như không bị hạn chế hoạt động. Trên thực tế, họ chỉ bị giới hạn bởi hiệu quả hoạt động – những gì họ có thể đạt được. Chính phủ và công chúng phương Tây cần thức tỉnh trước mối đe dọa này.


Mối thù cũ, vũ khí mới


Trong Chiến tranh Lạnh, cả Mỹ và Liên Xô đều công nghiệp hóa việc thu thập thông tin tình báo – họ sử dụng máy tính để phá mật mã của nhau. Không gian hoạt động gián điệp chuyển từ trên đất liền, dưới biển sâu, đến tầng bình lưu, rồi thậm chí là vào không gian. Ngày nay, các chính phủ phương Tây đang trong cuộc chiến tranh lạnh mới với Nga và Trung Quốc, và điều này một lần nữa làm biến đổi bản chất của hoạt động gián điệp. Cuộc chiến tranh lạnh mới này không phải là sự lặp lại của cuộc chiến trước, nhưng có những điểm tương đồng và tiếp nối, bao gồm cả tình trạng bất cân xứng rõ rệt trong xung đột tình báo Đông-Tây. Các cơ quan ngầm của phương Tây gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin tình báo đáng tin cậy về các quốc gia khép kín sau “bức màn sắt”; họ thậm chí còn gặp khó khăn hơn trong việc thu thập thông tin tình báo ở Nga hoặc Trung Quốc thông qua các hệ thống theo dõi Orwell. Trong khi đó, Nga và Trung Quốc tương đối dễ dàng đánh cắp bí mật từ các xã hội cởi mở, tự do và dân chủ của phương Tây, giống như Liên Xô trước đó.


Tuy nhiên, những điểm tương đồng giữa cuộc xung đột siêu cường này và cuộc xung đột gần đây nhất không thể che giấu những khác biệt. Ảnh hưởng kinh tế đáng kể của Trung Quốc và sự hội nhập của nước này vào nền kinh tế toàn cầu tạo sự khác biệt giữa nước này với Liên Xô. Bối cảnh thông tin ngày nay cũng khác nhiều so với bối cảnh của quá khứ gần đây. Ví dụ, các công ty vệ tinh thương mại hiện mang lại những năng lực mà cho đến gần đây vẫn là lĩnh vực độc quyền của chính phủ. Thông tin tình báo nguồn mở và thương mại đang tạo ra những thay đổi trong lĩnh vực an ninh quốc gia. Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ thu thập khoảng 80% thông tin tình báo từ các nguồn bí mật và 20% từ các nguồn mở. Giờ đây, những tỷ lệ này được cho là đã bị đảo ngược. Tương lai của tình báo phương Tây không nằm trong tay chính phủ, mà nằm trong tay khu vực tư nhân. Thách thức đối với các chính phủ phương Tây là khai thác khả năng của các nhà cung cấp thông tin tình báo thương mại. Điều này sẽ đòi hỏi phải thiết lập các quan hệ đối tác công-tư mới.


Tuy nhiên, điều mà các chính phủ phương Tây cần hơn cả là trí tưởng tượng khi đề cập đến việc thu thập thông tin tình báo về các quốc gia khép kín. Trí tưởng tượng là thứ đã thôi thúc CIA phát triển máy bay tầm cao U-2 có khả năng do thám tình hình đằng sau “bức màn sắt”, điều khó có thể thực hiện thông qua các phương thức khác. Ngày nay, trí tưởng tượng là yếu tố cần thiết trong các lĩnh vực hàng đầu của an ninh quốc gia, bao gồm thu thập thông tin tình báo nguồn mở, sử dụng máy học và trí tuệ nhân tạo, cũng như điện toán lượng tử. Đây sẽ là những vũ khí được sử dụng trong cuộc chiến tranh lạnh của thế kỷ này và sẽ quyết định kết quả của cuộc chiến đó./.
 

Thoibaovietuc.com/Nguồn Foreign Affairs, vna

Copyright © 2022 Thời báo Việt Úc. All Rights Reserved

Mail
Zalo
Hotline

Hotline

SMS

Zalo Chat

Fanpage