Ngay từ thời điểm giành được đề cử của Đảng Dân chủ cho chức tổng thống vào năm 2020, Joe Biden đã tuyên bố rõ rằng ông cam kết bảo vệ nền dân chủ, trong và ngoài nước, bất chấp rủi ro.
Giờ đây, vào năm cuối cùng của nhiệm kỳ đầu tiên, rủi ro thực sự mà Tổng thống Biden phải đối mặt là điều gì sẽ xảy ra nếu Mỹ không thể tuân thủ các cam kết mà ông từng đưa ra với 2 đồng minh - Israel và Ukraine - vốn đang bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh của chính họ mà tiếp tục không có dấu hiệu kết thúc.
Trong cả hai cuộc xung đột, Biden đã cố gắng giải thích với đất nước và thế giới rằng cam kết của Mỹ không chỉ là hỗ trợ tài chính và quân sự, mà còn là toàn bộ sức mạnh ngoại giao và chính trị của Mỹ đối với 2 quốc gia nói trên. Ý chí chính trị của Biden dường như đang suy yếu khi Mỹ quyết định không phủ quyết một nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) kêu gọi tạm dừng giao tranh ở Gaza, mặc dù nghị quyết này không lên án Hamas vì đã bắt đầu cuộc chiến này.
Tuy nhiên, Biden đã không giúp ích gì cho mình trong việc giảm thiểu những rủi ro này. Về Ukraine, ông thường phát ngôn mạnh mẽ nhưng lại hành động một cách lưỡng lự, chẳng hạn như chần chừ trong việc phê duyệt chuyển giao các loại vũ khí tiên tiến rất cần thiết, như chiến đấu cơ F-16 và tên lửa tầm xa, chỉ để phê duyệt chúng nhiều tháng sau đó, lãng phí thời gian quý báu.
Về vấn đề Israel, Biden cũng tỏ ra lưỡng lự không kém. Ban đầu, ông hết lòng lên tiếng ủng hộ quyền tự vệ của Israel và chỉ trích cuộc tấn công của Hamas, nhưng sau đó ông thay đổi giọng điệu và bắt đầu gây áp lực buộc Israel phải nhượng bộ ngày càng nhiều hơn đối với Gaza do Hamas kiểm soát.
Rõ ràng, nếu Biden không thể giữ được những cam kết đó, thì các đồng minh của Mỹ không chỉ gặp rủi ro vật chất. Ông cũng sẽ phải đối mặt với những rủi ro chính trị lớn. Điểm yếu này của Biden sẽ cho phép đối thủ, có thể là cựu Tổng thống Donald Trump vào năm 2024, nói rằng “Đảng Dân chủ yếu đuối, hãy bầu tôi và tôi có thể chấm dứt cả 2 cuộc xung đột trong một ngày”.
Không phải ngẫu nhiên mà điểm bùng phát đối với Biden về sự tán thành của người Mỹ đối với hiệu quả công việc của ông đến vào mùa Hè năm 2021 với cuộc rút quân hỗn loạn khỏi Afghanistan, mặc dù cần thiết về mặt quân sự và chính trị, nhưng đã được thực hiện theo cách mà nó củng cố nhận thức về sức mạnh đang suy giảm của Mỹ và sự sẵn sàng từ bỏ các đồng minh của Mỹ.
Trước khi rút quân khỏi Afghanistan, tỷ lệ ủng hộ Biden luôn ở mức hoặc trên 50%, nhưng trong hơn 2 năm kể từ đó, Biden đã không vượt qua mức thấp nhất là 40%, với tỷ lệ ủng hộ tổng thống hiện ở mức ảm đạm 37%, theo các cuộc thăm dò của Gallup.
Tất nhiên, có nhiều nguyên nhân khiến số người ủng hộ Biden ngày càng giảm. Lạm phát đã cản trở hầu như toàn bộ nhiệm kỳ tổng thống của ông, sự bi quan kéo dài về tình trạng nền kinh tế và biên giới phía Nam tiếp tục là một cuộc khủng hoảng.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu bỏ qua tác động của môi trường địa chính trị ngày càng đáng báo động đối với vị thế trong nước của Biden.
Trên thực tế, bất chấp niềm tin của Biden rằng Mỹ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ các giá trị tự do ở mọi nơi mà chúng bị đe dọa, kết quả từ các chính sách của Biden ở mức tốt nhất là lẫn lộn và sự phản đối vẫn tiếp tục gia tăng, qua đó càng gây nguy hiểm cho vị thế của Biden.
Nói cách khác, trong bối cảnh sự bất mãn ngày càng tăng trong nước đối với an ninh quốc gia, nền kinh tế, chính sách nhập cư và các vấn đề khác, cũng như những rủi ro chính trị đối với nhiệm kỳ tổng thống của Biden, vẫn còn một câu hỏi mở là liệu Biden có thể giữ đúng những cam kết mà ông đã đưa ra với các đồng minh của Mỹ hay không.
Đây không còn là một câu hỏi giả định nữa. Hơn 100 tỷ USD hỗ trợ thời chiến cho Ukraine và Israel vẫn bị đình trệ tại Hạ viện, trong khi Đảng Cộng hòa phản đối việc chi thêm cho Ukraine khi cuộc chiến bước sang năm thứ 3. Ngoài ra còn có sự thất vọng ngày càng tăng về tình hình tài chính của nước Mỹ.
Liệu Biden có đủ vốn chính trị để thúc đẩy các gói viện trợ đó hay không vẫn còn phải xem, đặc biệt là với sự phản đối vững chắc của công chúng về quyền tài trợ cho Ukraine và yêu cầu ngày càng lớn tiếng từ cánh tả về việc đình chỉ viện trợ cho Israel khi nước này chiến đấu với Hamas.
Tương tự như vậy, trong khi người Mỹ có xu hướng ủng hộ Israel nhiều hơn Ukraine do mối quan hệ lịch sử giữa Israel và Mỹ, thì rất có khả năng chiến dịch chống lại Hamas của Israel càng kéo dài thì sự ủng hộ của công chúng đối với cả 2 cuộc chiến sẽ bị xói mòn.
Trớ trêu thay, điều duy nhất đoàn kết cánh hữu của Đảng Cộng hòa và cánh tả của Đảng Dân chủ là sự phản đối gay gắt đối với cam kết của Biden nhằm giúp Ukraine và Israel chống lại 2 cuộc chiến mà cả 2 nước đều không muốn nhưng bị ép buộc tham gia.
Hơn nữa, chính sự phản đối “lưỡng đảng” đối với đề xuất hỗ trợ của Biden cho Ukraine và Israel đang đe dọa làm suy yếu chính quyền vào thời điểm tồi tệ nhất có thể: Ngay trước cuộc bầu cử tổng thống năm 2024.
Trong vòng chưa đầy một năm nữa, Biden có thể sẽ phải đối mặt với Donald Trump, người đã đạt được một số thành công trong việc đưa ra ý tưởng rằng thế giới là một nơi an toàn hơn với ông trong Phòng Bầu dục, một lập luận mà người Mỹ vẫn thấy thuyết phục xét theo tình trạng thế giới ngày nay.
Để đạt được mục tiêu đó, 53% cử tri đã đăng ký nói rằng họ tin tưởng Trump sẽ làm tốt hơn vấn đề an ninh quốc gia, so với chỉ 41% nói rằng họ tin tưởng Biden hơn, theo cuộc thăm dò của New York Times/Siena.
Điều đó nói lên rằng, nguy hiểm nhất đối với Biden là sự chia rẽ ngày càng tăng trong chính đảng của ông, giữa một bên cánh tả cấp tiến và một bên ôn hòa hơn trong việc ủng hộ Israel. Sự thiếu hỗ trợ dành cho Israel này đặc biệt gay gắt trong giới trẻ và một số tổ chức tiến bộ của người Mỹ gốc Phi. Một nhà lập pháp tiến bộ, nghị sĩ Mỹ gốc Palestine Rashida Tlaib (Đảng Dân chủ - bang Michigan) đã thúc đẩy ngôn ngữ được Hamas thường xuyên sử dụng.
Và, trong khi nhà lập pháp đó phải đối mặt với sự giám sát thích đáng từ các đảng viên Đảng Dân chủ ôn hòa, bao gồm cả 22 người đã bỏ phiếu chỉ trích bà, thì điều đáng lo ngại cho tương lai của toàn bộ Đảng Dân chủ là một số người trong phe có tiếng nói nhất của đảng đã không lên án rõ ràng Hamas, được liệt kê trong danh sách tổ chức khủng bố của Bộ Ngoại giao.
Cuối cùng, thế giới như Biden thấy đang bị cuốn vào cuộc chiến giữa các lực lượng dân chủ và các thế lực của những kẻ chuyên quyền theo chủ nghĩa xét lại, quyết tâm phá bỏ trật tự thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo. Di sản chính trị của Biden đã trở nên gắn bó chặt chẽ với vai trò của Mỹ như một kho vũ khí của nền dân chủ.
Tuy nhiên, việc không thể thông qua bất kỳ gói tài trợ nào tại Quốc hội trong thời gian dài sẽ có nguy cơ khiến Đảng Cộng hòa tấn công rằng Biden là một tổng thống yếu kém, kém hiệu quả và phải được thay thế bằng Trump mạnh mẽ hơn đáng kể. Điều đó rất có thể làm tan vỡ hy vọng tái đắc cử của Biden.
Nếu Biden hy vọng tránh được số phận của Jimmy Carter, người thất bại nặng nề vào năm 1980 phần lớn là do những thách thức kinh tế và địa chính trị tương tự như những thách thức mà Biden phải đối mặt, thì ông phải tìm cách đảm bảo rằng Mỹ tuân thủ các cam kết đã đưa ra cho các đồng minh và thế giới./.